Andrea Pirlo


Gần 6 tháng từ sau cái đêm 9/7 đầy cảm xúc ấy, giờ đây báo chí đâu đâu cũng chỉ còn nhắc đến Cannavaro. Ba giải thưởng lớn trong năm dành cho một cầu thủ đều thuộc về Cannavaro - thành viên nổi bật nhất của ĐT bóng đá Italia giành chức VĐTG năm 2006. Dường như người ta đã quên rằng: không phải Lippi, không phải Cannavaro, mà chính Pirlo mới là người cầm chiếc chìa khóa của cánh cửa đưa ĐT Italia đến với chiếc Cúp vàng lần thứ 4.


Andrea Pirlo sinh ngày 19 tháng 5 năm 1979 tại thị trấn Flero, Brescia (tỉnh lỵ của vùng Lombardia, miền Bắc Italia) trong một gia đình khá giả. Cha Pirlo là chủ của 2 phân xưởng cơ khí nhưng ông không bao giờ ép buộc anh phải theo nghiệp này, làm nghề kia. Pirlo được tự do quyết định tương lai của mình và bóng đá là sự lựa chọn của anh.


Pirlo và thần tượng của mình sát cánh trong màu áo Brescia mùa bóng 2000-2001



Pirlo yêu Inter Milan và vào mùa bóng 1998-1999, khi anh được đến sân Giuseppe Meaza thi đấu trong màu áo Xanh-Đen, thì đó cũng là lúc ước mơ từ thưở thiếu thời của Pirlo đã trở thành hiện thực. Andrea có trận đấu chính thức đầu tiên trong màu áo đội bóng quê hương – Brescia ở Serie A lúc anh tròn 16 tuổi. Brescia xuống Serie B từ sau mùa bóng 1994-1995 và Pirlo là nhân tố chính giúp họ trở lại Serie A sau mùa bóng 1996 -1997. Nhưng dù cho “cánh én nhỏ” Pirlo đã chao liệng hết mình, đầy cảm hứng và ấn tượng trên bầu trời Calcio xanh thẳm với dáng bay đẹp tựa những vần thơ của “thi si sân cỏ” Roberto Baggio, nhưng cũng không thể nào giữ nổi mùa xuân ở lại Brescia. Kết thúc mùa bóng 1997-1998, Brescia phải xuống Serie B một lần nữa và “cánh én nhỏ” Pirlo với khát khao được bay cao hơn, xa hơn đành ngậm ngùi đến với vùng trời Milan trong màu áo Inter.

Đó là Inter Milan của một thời kỳ điên loạn, các HLV nối đuôi nhau tới Giuseppe Meaza, không biết bao nhiêu cầu thủ được mua về với giá trên trời để... ngồi mài quần trên băng ghế dự bị, và đợi được cho đội bóng khác mượn hoặc bị bán tháo đi. Pirlo không phải là một ngoại lệ. Ở Inter, người ta không biết đặt anh ở vị trí nào trên sân và bố trí lối chơi kiểu gì để phát huy khả năng của Pirlo. Người ta đã quá kỳ vọng vào hình tượng của một Trequartista (tiền đạo lùi, hộ công) trong Andrea khi chứng kiến những pha xử lý bóng kỹ thuật, những pha kiến thiết bóng uyển chuyển mang dáng dấp của Rivera hay Baggio. Thực tế đã chứng minh, Pirlo không phải là mẫu cầu thủ mang áo số 10 cổ điển như Cruyff, Rivera, Platini, Maradona hoặc hiện đại hơn là Baggio, Zidane, Rivaldo. Bởi vì trình độ kỹ thuật cá nhân của anh dù có tinh tế và thuộc hàng khá nhất của bóng đá Ý, nhưng nó chưa đạt đến mức điêu luyện để có thể tạo đột biến một cách thường xuyên trên hàng tấn công. Nói cách khác, Pirlo sẽ chỉ là cái bóng của Del Piero hay Totti ở Serie A và khó lòng chen chân vào ĐT Italia, nếu anh cứ tiếp tục được đặt niềm tin để trở thành một Trequartista xuất sắc. Đấy là không muốn nói Pirlo rồi sẽ lại chìm nghỉm xuống như bao cánh chim non đầy hứa hẹn khác trong môi trường Serie A khắc nghiệt. Quãng thời gian từ năm 1999 đến 2001 là những tháng ngày long đong của Pirlo, khi anh ngược xuôi hết từ Inter sang Reggina theo một hợp đồng cho mượn rồi lại từ Reggina về Inter. Sau đó Pirlo được Brescia mượn trong nửa mùa bóng 2000-2001 trước khi trở lại Inter và đón nhận một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp của mình.


Pirlo và Ronaldo (Inter Milan mùa bóng 1998-1999)


Massimo Moratti - chủ tịch Inter khi chứng kiến những thành công của Pirlo với AC Milan, có thể đã tiếc “hùi hụi” vì quyết định bán anh cho đội bóng cùng thành phố sau mùa giải 2000-2001. Nhưng có lẽ ông không cần phải tiếc như thế làm gì vì một lẽ đơn giản, Carlo Ancelotti – một người của AC sẽ không bao giờ là HLV của Inter. Sau khi về dẫn dắt Milan, được ban lãnh đạo đội bóng ủng hộ, Ancelotti đã quyết định thực hiện một kế hoạch dài hơi nhằm khôi phục vị thế của Rossoneri. Và “đổi màu áo” cho Pirlo từ Xanh-Đen sang Đỏ-Đen là một phần trong kế hoạch ấy. Một mùa theo dõi Pirlo đá dự bị cho Rui Costa ở vị trí Trequartista khiến Carlo nảy ra một ý tưởng lạ và đi đến một quyết định, với lực lượng có trong tay, ông cần thực hiện cuộc cách mạng về lối chơi với Pirlo là hạt nhân. Chắc rằng, Pirlo sẽ còn mang ơn Ancelotti rất nhiều bởi vị HLV này chính là “người mẹ” thứ 2 của anh, người đã nhào nặn anh trở thành hiện thân xuất chúng nhất của một kiểu cầu thủ mới trong bóng đá: tiền vệ kiến thiết lối chơi đứng ngay trước hàng hậu vệ.



Ancelotti và cậu học trò cưng


Pirlo là đỉnh thấp nhất trong hàng tiền vệ hình thoi của Milan, thường bao gồm: anh, Gattuso, Seedorf, Rui Costa hoặc sau này là Kaka. Mặc dù Pirlo có thể hình không thuận lợi cho vị trí đánh chặn (cao 1m77 và nặng 68kg), nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của anh không phải là như thế. Khi Milan tấn công, hình thoi bung ra, bóng bắt đầu từ chân Pirlo phóng sang 2 cánh hoặc chuyền dài lên cho Trequartista và tiền đạo. Các pha phân phối bóng đều được Pirlo bằng kỹ thuật và đặc biệt là nhãn quan chiến thuật tốt, xử lý rất chính xác và nhịp nhàng, luôn ăn khớp với lối di chuyển của đồng đội – điều cực kỳ quan trọng đối với một người có nhiệm vụ tổ chức tấn công. Khi Milan phòng ngự, hình thoi thu lại và Pirlo chính là điểm thắt nút. Lúc ấy, Gattuso hoặc Seedorf với thể lực tốt sẽ co vào giúp cho Pirlo thu hồi bóng. Pirlo không có sức mạnh cơ bắp như David hay Emerson, nhưng với sự tinh tế bẩm sinh, anh biết cách lấy bóng rất gọn gàng và cũng biết phạm lỗi một cách vừa đủ để làm giảm nhịp độ trận đấu khi cần thiết.



Pirlo, Kaladze và Nesta trong lễ ăn mừng vô địch C1 mùa bóng 2002-2003


Không những thế, vào trường hợp Milan vây hãm đối phương, phẩm chất của một Trequartista trong Pirlo cũng được thể hiện rất tốt. Đó là những pha Pirlo qua người “đẹp mắt” ở khu vực trung lộ rồi tung ra đường chuyền sáng tạo cho đồng đội hoặc là tự mình kết thúc. Khả năng sút xa và đặc biệt là tài đá phạt ở đủ các góc của Pirlo cũng thật đáng nể. Hầu hết những pha đá phạt hàng rào, phạt góc, phạt 11m ở Milan hay ĐTQG đều do Pirlo thực hiện. Pirlo là người ghi bàn thắng đầu tiên cho Italia tại WC 2006 vào lưới Ghana từ một cú sút xa, là người đá phạt điểm rơi cho Gilardino và Materazzi đánh đầu tung lưới Mỹ, Pháp... Không ai thi đấu với vai trò của Pirlo lại tỏ ra xuất sắc hơn anh, nói khác đi, vai trò ấy là dành riêng cho Pirlo – người hội tủ đầy đủ những phẩm chất cần thiết để thực hiện nó, cho dù chưa phải là hoàn hảo, dĩ nhiên rồi. Ancelotti từng nói “Không có cầu thủ nào có thể sánh với những phẩm chất Pirlo, trừ một người trong quá khứ, đó là tôi”. Có lẽ Carlo đã hơi bị “thăng hoa” thái quá, bởi đúng là ông từng thi đấu cho Milan ở vị trí mà Pirlo đang nắm giữ, nhưng vai trò kiến thiết lối chơi của ông khi ấy không nổi bật như cậu học trò.



Nesta và Pirlo bên chiếc khiên tượng trưng cho chức VĐQG Italia lần thứ 17



Năm 2003, cuộc cách mạng của Ancelotti đã thăng hoa với chiếc Cúp C1 lần thứ 6 cho Milan nhờ ly cocktail mang tên Pirlo, một sự trộn lẫn thú vị và hiệu quả giữa hộ công với tiền vệ phòng ngự. Nhưng mùa giải 2003-2004, ly cocktail ấy mới thực sự đạt được độ “ngon” và “nồng” nhất. Cuối mùa bóng Milan đoạt scudetto lần thứ 17. Đấy là khi mà bất cứ đội bóng nào đối mặt với Milan cũng phải ngao ngán và run sợ bởi khả năng kiểm soát bóng tuyệt vời, cũng như những miếng đánh vừa quyến rũ, huyền ảo vừa sắc sảo của hàng tiền vệ đội bóng Đỏ-Đen với Pirlo là thủ lĩnh. Hàng tiền vệ con thoi đan bóng như xiếc ở giữa sân rồi khi mà đối phương còn chưa hết ngơ ngác thì Sheva hay Pippo đã có bóng đối mặt với thủ môn của họ. Juve khiếp đảm thua 1-3 trước Milan ngay tại Delle Alpi, Milan giành scudetto lần thứ 17 một cách thuyết phục. Pirlo và Kaka bùng nổ giúp Milan hạ Depotivo 4-1 tại San Siro. Nhưng điểm yếu của Milan đã được bộc lộ từ trận đấu lượt về với chính Deportivo trên sân Riazo, trận thua “không tưởng” đầu tiên của Milan, họ thua trắng 4 bàn và bị loại khỏi C1. Một năm sau, Milan có trận thua “không tưởng” thứ 2 trước Liverpool trong trận CK CLs sau khi dẫn trước 3-0. Pirlo là một trong 3 cầu thủ Milan đá hỏng trong loạt luân lưu.



Pirlo và Dudek trong trận CK C1 2004-2005, chuyên gia 11 m - Pirlo sút hỏng


“Thảm họa Istanbul” vào tháng 5 năm 2005 đấy là nỗi ám ảnh với rất nhiều Rossoneri và khiến họ không ngừng tự vấn rằng: tại sao điều “không tưởng” ấy lại xảy ra với một đội bóng có hàng thủ thuộc hàng cứng nhất châu Âu? Vấn đề không hẳn là nằm ở hàng hậu vệ già nua như người ta vẫn đổ vấy lên, mà nằm ở vị trí của Gattuso và đặc biệt là Pirlo. Bản tính Pirlo hiền lành và thực chất, con người bóng đá của Pirlo vốn thiên về một cầu thủ tấn công hơn phòng ngự. Do vậy mà khi đối thủ vùng lên quyết tử một cách dữ dội và mãnh liệt như Depor hay Pool đã làm, vía “thủ” của Pirlo sẽ bị áp đi, dẫn đến vía “công” cũng không thể áp được đối phương. Pirlo thi đấu vật vờ và dường như biến mất khỏi sân, khiến hàng hậu vệ đứng ngay sau anh do liên tục chịu sức ép, lại không được chia tải từ tuyến trên nên mắc sai lầm là điều tất nhiên, từ đó dẫn đến sự đổ vỡ cả hệ thống. Đây là điểm yếu về tâm lý của Pirlo nói riêng và của Milan nói chung. Milan không phải là một đội bóng có tinh thần thi đấu sắt đá, lạnh lùng như Juve. Thủ lĩnh tinh thần (Maldini) và thủ lĩnh lối chơi (Pirlo) đều tỏ ra quá hiền. Nhưng đó là Milancelotti. Carlo thấm thía điều ấy hơn ai hết. Ông biết đội bóng của mình mạnh yếu thế nào chứ, nhưng khi một ý tưởng đã trở thành chủ đạo trong đường lối của mình rồi thì sẽ rất khó để làm mới, nhất là nó đã từng dẫn đến thành công cho một người cầu toàn như Ancelotti. Cuộc sống vốn không hoàn hảo và bóng đá cũng vậy, được mặt này thì mất điểm kia, có thăng hoa thì có thảm họa. Lối chơi của Milan xoay quanh vị trí “tiền vệ kiến thiết lối chơi đứng trước hàng hậu vệ” của Pirlo là một ví dụ điển hình.



Pirlo trong màu áo U21 Italia



Nếu như vị trí của Pirlo suốt hơn 4 năm qua ở Milan là “không thể thay thế” theo lời của PCT Milan - Adriano Galliani thì tình hình không thuận lợi cho Pirlo như vậy ở ĐTQG. Sau thất bại đầy “ấm ức” ở WC 2002, người ta rất hy vọng Trapattoni sẽ có một sự cách tân đáng kể trong lối chơi của ĐT Italia. Thời điểm ấy, mô hình thi đấu của Milan đang tỏ ra rất hiệu quả, và bộ đôi Pirlo – Gattuso được Trap gọi vào ĐT. Nhưng Trap lại một lần nữa gây ra sự thất vọng khi ông tiếp tục xây dựng một lối chơi quá phụ thuộc vào Totti trong khi với lực lượng của mình, ông có thể tạo nên một sức bật mới cho ĐT áo Thiên Thanh. Xây dựng hàng tiền vệ theo mô hình Milan dựa trên bộ khung là 2 cầu thủ Đỏ-Đen ông gọi vào chẳng hạn. Pirlo không được trọng dụng dưới thời của Trap trong ĐT Italia “lớn”, mặc dù anh là đội trưởng của ĐT U21 đoạt chức VĐ châu Âu năm 2000 và Olympic Italia giành HCB bộ môn bóng đá ở Athen 2004. Tại Euro 2004, sau trận đấu đầu tiên hòa Đan Mạch 0-0 trong bế tắc, Totti bị treo giò, Trapattoni buộc phải có sự thay đổi, Pirlo vào đá chính, Italia khởi sắc hơn nhưng bị Thụy Điển cầm hòa 1-1. Và mặc dù trận cuối thắng Bulgaria 2-1, người Ý vẫn đành phải ngậm ngùi xách va-ly về nước do thua chỉ số phụ.



Euro 2004, một giải đấu thất vọng của ĐT Italia



Trap ra đi và Lippi thế chỗ. May mắn cho ĐT Italia, “lão đầu bạc” nhận thức được tầm quan trọng của Pirlo và ông đã âm thầm xây dựng mô hình hàng tiền vệ theo kiểu Milan, nhằm tạo điều kiện để Pirlo phát huy hết khả năng. Mặc dù Lippi luôn nói Totti là cầu thủ quan trọng nhất của ông, nhưng ai cũng biết “lão đầu bạc” có bao giờ lộ ý đồ của mình cho người khác biết đâu. Những ý tưởng về chiến thuật “thâm nho” nhất của ông bao giờ cũng chỉ thể hiện vào những giờ phút quan trọng nhất. Mặc dù đã thử nghiệm khá nhiều sơ đồ khác nhau cho ĐT Italia trong quá trình chuẩn bị cho WC 2006, nhưng có thể nhận thấy rằng Lippi luôn duy trì một bộ khung cho đội tuyển ở hàng tiền vệ (đặc biệt là từ năm 2005): Pirlo thi đấu thấp nhất và giữ vai trò như ở Milan, hỗ trợ anh vẫn là 2 trong 3 người: Gattuso, De Rossi, Camoranesi; đá dưới hàng tiền đạo là Totti. Khi Pirlo hoặc Totti không thể thi đấu thì Lippi vẫn giữ nguyên mô hình và ý tưởng ấy nhưng lấp cầu thủ khác vào. Điều này sẽ tạo ra một sự nhất quán trong tư duy chiến thuật, sự ổn định về lối chơi của ĐT Italia.



Pirlo bùng nổ ở WC 2006



WC 2006 chính là giải đấu mà Pirlo đã thể hiện rõ nhất vai trò quyết định của mình trong màu áo Thiên Thanh. Hầu hết những đường bóng tấn công của ĐT Italia đều qua chân Pirlo. Với sự hỗ trợ tích cực của các đồng đội ở hàng tiền vệ bên cạnh hàng hậu vệ chắc chắn dưới sự chỉ huy của Cannavaro, Pirlo hoàn toàn rảnh chân điều tiết nhịp độ trận đấu, phân phối bóng cho tuyến trên. Bàn thắng của Grosso vào lưới ĐT Đức chính là minh chứng rõ nhất cho sự thành công của Lippi với ĐT Italia, khi ông đã kiên định xây dựng hệ thống chiến thuật xoay quanh Pirlo. Nhận bóng bật ra sau quả phạt góc của Del Piero, Pirlo dẫn vài nhịp rồi làm động tác giả đẩy bóng ra biên, nhưng thực chất anh ngoặt chân tỉa một đường chuyền vào vòng 16m50 cho Grosso đang đứng đợi, anh này vung chân và 1-0 cho Italia. Nếu Lippi là người hướng dẫn cách tạo chìa khóa thì Pirlo là người hiện thực ý tưởng của Lippi – tạo ra chìa khóa, rồi cầm nó trao cho Grosso để hậu vệ này mở cánh cửa đưa ĐT Italia đến với Cúp vàng. Trong trận CK, một lần nữa vai trò “trao chìa khóa” của Pirlo lại được chứng minh bằng pha đá phạt góc điểm rơi, để Materazzi ghi bàn cân bằng tỉ số 1-1 trước Pháp. “Pirlo là người thủ lĩnh thầm lặng của đội bóng”, lời phát biểu ấy của Lippi đã nói lên tất cả.




Mùa bóng 2006-2007 bắt đầu với Pirlo bằng việc Milan của anh nhận âm 8 điểm do dính líu tới vụ Calciopoli. Cùng với đó là phong độ xuống dốc của cả tập thể đội bóng với khá nhiều cầu thủ lớn tuổi và một vài lý do khách quan khác, đã dẫn đến một hình ảnh Milan tệ hại nhất trong suốt 10 năm qua. Chu kỳ thăng tiến đã kết thúc và bản hành khúc Milan đang chuyển sang những nốt trầm, đó là thực tế. Và người tạo ra chu kỳ thăng tiến cho Milan cách đây hơn 5 năm – Ancelotti sẽ ra đi, muộn nhất là sau mùa bóng này. Vấn đề đó có lẽ không cần phải bàn cãi nữa, nhưng câu hỏi đặt ra là: Milan sẽ thi đấu với hệ thống chiến thuật gì trong thời kỳ mới, và vai trò của Pirlo như thế nào trong hệ thống ấy? Milancelotti lấy Pirlo làm linh hồn, Carlo ra đi, HLV mới sẽ đến với ý tưởng mới và có lẽ sẽ có linh hồn khác cho đội bóng. Bản thân người viết vẫn rất hy vọng Lippi đến với Milan và khi ấy, Pirlo vẫn sẽ là linh hồn của đội bóng. Pirlo mới 27 tuổi và anh đã ký hợp đồng với Milan đến năm 2011, thật là quá phí khi buộc anh phải rời xa vai trò đặc biệt để chuyển sang một vai trò khác ở Milan. Nếu Kaka đến Real thì rất có khả năng Pirlo sẽ lại là trở về là một Trequartista...




Gạt qua một bên những điều phiền muộn của một mùa bóng u ám, Pirlo mới đón nhận một tin vui từ người vợ Deborah. Chị đã mang đến bé con thứ 2 cho anh, bé Angela. Xin chúc gia đình của Pirlo luôn hạnh phúc và chúc cho Milan sang năm mới sẽ lại tìm được con đường cho một chu kỳ thành công mới. Và trên con đường ấy sẽ không vắng bóng của Andrea Pirlo, "ly cocktail bóng đá độc nhất vô nhị".

No comments:

Post a Comment

Friday, October 14, 2011

Andrea Pirlo


Gần 6 tháng từ sau cái đêm 9/7 đầy cảm xúc ấy, giờ đây báo chí đâu đâu cũng chỉ còn nhắc đến Cannavaro. Ba giải thưởng lớn trong năm dành cho một cầu thủ đều thuộc về Cannavaro - thành viên nổi bật nhất của ĐT bóng đá Italia giành chức VĐTG năm 2006. Dường như người ta đã quên rằng: không phải Lippi, không phải Cannavaro, mà chính Pirlo mới là người cầm chiếc chìa khóa của cánh cửa đưa ĐT Italia đến với chiếc Cúp vàng lần thứ 4.


Andrea Pirlo sinh ngày 19 tháng 5 năm 1979 tại thị trấn Flero, Brescia (tỉnh lỵ của vùng Lombardia, miền Bắc Italia) trong một gia đình khá giả. Cha Pirlo là chủ của 2 phân xưởng cơ khí nhưng ông không bao giờ ép buộc anh phải theo nghiệp này, làm nghề kia. Pirlo được tự do quyết định tương lai của mình và bóng đá là sự lựa chọn của anh.


Pirlo và thần tượng của mình sát cánh trong màu áo Brescia mùa bóng 2000-2001



Pirlo yêu Inter Milan và vào mùa bóng 1998-1999, khi anh được đến sân Giuseppe Meaza thi đấu trong màu áo Xanh-Đen, thì đó cũng là lúc ước mơ từ thưở thiếu thời của Pirlo đã trở thành hiện thực. Andrea có trận đấu chính thức đầu tiên trong màu áo đội bóng quê hương – Brescia ở Serie A lúc anh tròn 16 tuổi. Brescia xuống Serie B từ sau mùa bóng 1994-1995 và Pirlo là nhân tố chính giúp họ trở lại Serie A sau mùa bóng 1996 -1997. Nhưng dù cho “cánh én nhỏ” Pirlo đã chao liệng hết mình, đầy cảm hứng và ấn tượng trên bầu trời Calcio xanh thẳm với dáng bay đẹp tựa những vần thơ của “thi si sân cỏ” Roberto Baggio, nhưng cũng không thể nào giữ nổi mùa xuân ở lại Brescia. Kết thúc mùa bóng 1997-1998, Brescia phải xuống Serie B một lần nữa và “cánh én nhỏ” Pirlo với khát khao được bay cao hơn, xa hơn đành ngậm ngùi đến với vùng trời Milan trong màu áo Inter.

Đó là Inter Milan của một thời kỳ điên loạn, các HLV nối đuôi nhau tới Giuseppe Meaza, không biết bao nhiêu cầu thủ được mua về với giá trên trời để... ngồi mài quần trên băng ghế dự bị, và đợi được cho đội bóng khác mượn hoặc bị bán tháo đi. Pirlo không phải là một ngoại lệ. Ở Inter, người ta không biết đặt anh ở vị trí nào trên sân và bố trí lối chơi kiểu gì để phát huy khả năng của Pirlo. Người ta đã quá kỳ vọng vào hình tượng của một Trequartista (tiền đạo lùi, hộ công) trong Andrea khi chứng kiến những pha xử lý bóng kỹ thuật, những pha kiến thiết bóng uyển chuyển mang dáng dấp của Rivera hay Baggio. Thực tế đã chứng minh, Pirlo không phải là mẫu cầu thủ mang áo số 10 cổ điển như Cruyff, Rivera, Platini, Maradona hoặc hiện đại hơn là Baggio, Zidane, Rivaldo. Bởi vì trình độ kỹ thuật cá nhân của anh dù có tinh tế và thuộc hàng khá nhất của bóng đá Ý, nhưng nó chưa đạt đến mức điêu luyện để có thể tạo đột biến một cách thường xuyên trên hàng tấn công. Nói cách khác, Pirlo sẽ chỉ là cái bóng của Del Piero hay Totti ở Serie A và khó lòng chen chân vào ĐT Italia, nếu anh cứ tiếp tục được đặt niềm tin để trở thành một Trequartista xuất sắc. Đấy là không muốn nói Pirlo rồi sẽ lại chìm nghỉm xuống như bao cánh chim non đầy hứa hẹn khác trong môi trường Serie A khắc nghiệt. Quãng thời gian từ năm 1999 đến 2001 là những tháng ngày long đong của Pirlo, khi anh ngược xuôi hết từ Inter sang Reggina theo một hợp đồng cho mượn rồi lại từ Reggina về Inter. Sau đó Pirlo được Brescia mượn trong nửa mùa bóng 2000-2001 trước khi trở lại Inter và đón nhận một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp của mình.


Pirlo và Ronaldo (Inter Milan mùa bóng 1998-1999)


Massimo Moratti - chủ tịch Inter khi chứng kiến những thành công của Pirlo với AC Milan, có thể đã tiếc “hùi hụi” vì quyết định bán anh cho đội bóng cùng thành phố sau mùa giải 2000-2001. Nhưng có lẽ ông không cần phải tiếc như thế làm gì vì một lẽ đơn giản, Carlo Ancelotti – một người của AC sẽ không bao giờ là HLV của Inter. Sau khi về dẫn dắt Milan, được ban lãnh đạo đội bóng ủng hộ, Ancelotti đã quyết định thực hiện một kế hoạch dài hơi nhằm khôi phục vị thế của Rossoneri. Và “đổi màu áo” cho Pirlo từ Xanh-Đen sang Đỏ-Đen là một phần trong kế hoạch ấy. Một mùa theo dõi Pirlo đá dự bị cho Rui Costa ở vị trí Trequartista khiến Carlo nảy ra một ý tưởng lạ và đi đến một quyết định, với lực lượng có trong tay, ông cần thực hiện cuộc cách mạng về lối chơi với Pirlo là hạt nhân. Chắc rằng, Pirlo sẽ còn mang ơn Ancelotti rất nhiều bởi vị HLV này chính là “người mẹ” thứ 2 của anh, người đã nhào nặn anh trở thành hiện thân xuất chúng nhất của một kiểu cầu thủ mới trong bóng đá: tiền vệ kiến thiết lối chơi đứng ngay trước hàng hậu vệ.



Ancelotti và cậu học trò cưng


Pirlo là đỉnh thấp nhất trong hàng tiền vệ hình thoi của Milan, thường bao gồm: anh, Gattuso, Seedorf, Rui Costa hoặc sau này là Kaka. Mặc dù Pirlo có thể hình không thuận lợi cho vị trí đánh chặn (cao 1m77 và nặng 68kg), nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của anh không phải là như thế. Khi Milan tấn công, hình thoi bung ra, bóng bắt đầu từ chân Pirlo phóng sang 2 cánh hoặc chuyền dài lên cho Trequartista và tiền đạo. Các pha phân phối bóng đều được Pirlo bằng kỹ thuật và đặc biệt là nhãn quan chiến thuật tốt, xử lý rất chính xác và nhịp nhàng, luôn ăn khớp với lối di chuyển của đồng đội – điều cực kỳ quan trọng đối với một người có nhiệm vụ tổ chức tấn công. Khi Milan phòng ngự, hình thoi thu lại và Pirlo chính là điểm thắt nút. Lúc ấy, Gattuso hoặc Seedorf với thể lực tốt sẽ co vào giúp cho Pirlo thu hồi bóng. Pirlo không có sức mạnh cơ bắp như David hay Emerson, nhưng với sự tinh tế bẩm sinh, anh biết cách lấy bóng rất gọn gàng và cũng biết phạm lỗi một cách vừa đủ để làm giảm nhịp độ trận đấu khi cần thiết.



Pirlo, Kaladze và Nesta trong lễ ăn mừng vô địch C1 mùa bóng 2002-2003


Không những thế, vào trường hợp Milan vây hãm đối phương, phẩm chất của một Trequartista trong Pirlo cũng được thể hiện rất tốt. Đó là những pha Pirlo qua người “đẹp mắt” ở khu vực trung lộ rồi tung ra đường chuyền sáng tạo cho đồng đội hoặc là tự mình kết thúc. Khả năng sút xa và đặc biệt là tài đá phạt ở đủ các góc của Pirlo cũng thật đáng nể. Hầu hết những pha đá phạt hàng rào, phạt góc, phạt 11m ở Milan hay ĐTQG đều do Pirlo thực hiện. Pirlo là người ghi bàn thắng đầu tiên cho Italia tại WC 2006 vào lưới Ghana từ một cú sút xa, là người đá phạt điểm rơi cho Gilardino và Materazzi đánh đầu tung lưới Mỹ, Pháp... Không ai thi đấu với vai trò của Pirlo lại tỏ ra xuất sắc hơn anh, nói khác đi, vai trò ấy là dành riêng cho Pirlo – người hội tủ đầy đủ những phẩm chất cần thiết để thực hiện nó, cho dù chưa phải là hoàn hảo, dĩ nhiên rồi. Ancelotti từng nói “Không có cầu thủ nào có thể sánh với những phẩm chất Pirlo, trừ một người trong quá khứ, đó là tôi”. Có lẽ Carlo đã hơi bị “thăng hoa” thái quá, bởi đúng là ông từng thi đấu cho Milan ở vị trí mà Pirlo đang nắm giữ, nhưng vai trò kiến thiết lối chơi của ông khi ấy không nổi bật như cậu học trò.



Nesta và Pirlo bên chiếc khiên tượng trưng cho chức VĐQG Italia lần thứ 17



Năm 2003, cuộc cách mạng của Ancelotti đã thăng hoa với chiếc Cúp C1 lần thứ 6 cho Milan nhờ ly cocktail mang tên Pirlo, một sự trộn lẫn thú vị và hiệu quả giữa hộ công với tiền vệ phòng ngự. Nhưng mùa giải 2003-2004, ly cocktail ấy mới thực sự đạt được độ “ngon” và “nồng” nhất. Cuối mùa bóng Milan đoạt scudetto lần thứ 17. Đấy là khi mà bất cứ đội bóng nào đối mặt với Milan cũng phải ngao ngán và run sợ bởi khả năng kiểm soát bóng tuyệt vời, cũng như những miếng đánh vừa quyến rũ, huyền ảo vừa sắc sảo của hàng tiền vệ đội bóng Đỏ-Đen với Pirlo là thủ lĩnh. Hàng tiền vệ con thoi đan bóng như xiếc ở giữa sân rồi khi mà đối phương còn chưa hết ngơ ngác thì Sheva hay Pippo đã có bóng đối mặt với thủ môn của họ. Juve khiếp đảm thua 1-3 trước Milan ngay tại Delle Alpi, Milan giành scudetto lần thứ 17 một cách thuyết phục. Pirlo và Kaka bùng nổ giúp Milan hạ Depotivo 4-1 tại San Siro. Nhưng điểm yếu của Milan đã được bộc lộ từ trận đấu lượt về với chính Deportivo trên sân Riazo, trận thua “không tưởng” đầu tiên của Milan, họ thua trắng 4 bàn và bị loại khỏi C1. Một năm sau, Milan có trận thua “không tưởng” thứ 2 trước Liverpool trong trận CK CLs sau khi dẫn trước 3-0. Pirlo là một trong 3 cầu thủ Milan đá hỏng trong loạt luân lưu.



Pirlo và Dudek trong trận CK C1 2004-2005, chuyên gia 11 m - Pirlo sút hỏng


“Thảm họa Istanbul” vào tháng 5 năm 2005 đấy là nỗi ám ảnh với rất nhiều Rossoneri và khiến họ không ngừng tự vấn rằng: tại sao điều “không tưởng” ấy lại xảy ra với một đội bóng có hàng thủ thuộc hàng cứng nhất châu Âu? Vấn đề không hẳn là nằm ở hàng hậu vệ già nua như người ta vẫn đổ vấy lên, mà nằm ở vị trí của Gattuso và đặc biệt là Pirlo. Bản tính Pirlo hiền lành và thực chất, con người bóng đá của Pirlo vốn thiên về một cầu thủ tấn công hơn phòng ngự. Do vậy mà khi đối thủ vùng lên quyết tử một cách dữ dội và mãnh liệt như Depor hay Pool đã làm, vía “thủ” của Pirlo sẽ bị áp đi, dẫn đến vía “công” cũng không thể áp được đối phương. Pirlo thi đấu vật vờ và dường như biến mất khỏi sân, khiến hàng hậu vệ đứng ngay sau anh do liên tục chịu sức ép, lại không được chia tải từ tuyến trên nên mắc sai lầm là điều tất nhiên, từ đó dẫn đến sự đổ vỡ cả hệ thống. Đây là điểm yếu về tâm lý của Pirlo nói riêng và của Milan nói chung. Milan không phải là một đội bóng có tinh thần thi đấu sắt đá, lạnh lùng như Juve. Thủ lĩnh tinh thần (Maldini) và thủ lĩnh lối chơi (Pirlo) đều tỏ ra quá hiền. Nhưng đó là Milancelotti. Carlo thấm thía điều ấy hơn ai hết. Ông biết đội bóng của mình mạnh yếu thế nào chứ, nhưng khi một ý tưởng đã trở thành chủ đạo trong đường lối của mình rồi thì sẽ rất khó để làm mới, nhất là nó đã từng dẫn đến thành công cho một người cầu toàn như Ancelotti. Cuộc sống vốn không hoàn hảo và bóng đá cũng vậy, được mặt này thì mất điểm kia, có thăng hoa thì có thảm họa. Lối chơi của Milan xoay quanh vị trí “tiền vệ kiến thiết lối chơi đứng trước hàng hậu vệ” của Pirlo là một ví dụ điển hình.



Pirlo trong màu áo U21 Italia



Nếu như vị trí của Pirlo suốt hơn 4 năm qua ở Milan là “không thể thay thế” theo lời của PCT Milan - Adriano Galliani thì tình hình không thuận lợi cho Pirlo như vậy ở ĐTQG. Sau thất bại đầy “ấm ức” ở WC 2002, người ta rất hy vọng Trapattoni sẽ có một sự cách tân đáng kể trong lối chơi của ĐT Italia. Thời điểm ấy, mô hình thi đấu của Milan đang tỏ ra rất hiệu quả, và bộ đôi Pirlo – Gattuso được Trap gọi vào ĐT. Nhưng Trap lại một lần nữa gây ra sự thất vọng khi ông tiếp tục xây dựng một lối chơi quá phụ thuộc vào Totti trong khi với lực lượng của mình, ông có thể tạo nên một sức bật mới cho ĐT áo Thiên Thanh. Xây dựng hàng tiền vệ theo mô hình Milan dựa trên bộ khung là 2 cầu thủ Đỏ-Đen ông gọi vào chẳng hạn. Pirlo không được trọng dụng dưới thời của Trap trong ĐT Italia “lớn”, mặc dù anh là đội trưởng của ĐT U21 đoạt chức VĐ châu Âu năm 2000 và Olympic Italia giành HCB bộ môn bóng đá ở Athen 2004. Tại Euro 2004, sau trận đấu đầu tiên hòa Đan Mạch 0-0 trong bế tắc, Totti bị treo giò, Trapattoni buộc phải có sự thay đổi, Pirlo vào đá chính, Italia khởi sắc hơn nhưng bị Thụy Điển cầm hòa 1-1. Và mặc dù trận cuối thắng Bulgaria 2-1, người Ý vẫn đành phải ngậm ngùi xách va-ly về nước do thua chỉ số phụ.



Euro 2004, một giải đấu thất vọng của ĐT Italia



Trap ra đi và Lippi thế chỗ. May mắn cho ĐT Italia, “lão đầu bạc” nhận thức được tầm quan trọng của Pirlo và ông đã âm thầm xây dựng mô hình hàng tiền vệ theo kiểu Milan, nhằm tạo điều kiện để Pirlo phát huy hết khả năng. Mặc dù Lippi luôn nói Totti là cầu thủ quan trọng nhất của ông, nhưng ai cũng biết “lão đầu bạc” có bao giờ lộ ý đồ của mình cho người khác biết đâu. Những ý tưởng về chiến thuật “thâm nho” nhất của ông bao giờ cũng chỉ thể hiện vào những giờ phút quan trọng nhất. Mặc dù đã thử nghiệm khá nhiều sơ đồ khác nhau cho ĐT Italia trong quá trình chuẩn bị cho WC 2006, nhưng có thể nhận thấy rằng Lippi luôn duy trì một bộ khung cho đội tuyển ở hàng tiền vệ (đặc biệt là từ năm 2005): Pirlo thi đấu thấp nhất và giữ vai trò như ở Milan, hỗ trợ anh vẫn là 2 trong 3 người: Gattuso, De Rossi, Camoranesi; đá dưới hàng tiền đạo là Totti. Khi Pirlo hoặc Totti không thể thi đấu thì Lippi vẫn giữ nguyên mô hình và ý tưởng ấy nhưng lấp cầu thủ khác vào. Điều này sẽ tạo ra một sự nhất quán trong tư duy chiến thuật, sự ổn định về lối chơi của ĐT Italia.



Pirlo bùng nổ ở WC 2006



WC 2006 chính là giải đấu mà Pirlo đã thể hiện rõ nhất vai trò quyết định của mình trong màu áo Thiên Thanh. Hầu hết những đường bóng tấn công của ĐT Italia đều qua chân Pirlo. Với sự hỗ trợ tích cực của các đồng đội ở hàng tiền vệ bên cạnh hàng hậu vệ chắc chắn dưới sự chỉ huy của Cannavaro, Pirlo hoàn toàn rảnh chân điều tiết nhịp độ trận đấu, phân phối bóng cho tuyến trên. Bàn thắng của Grosso vào lưới ĐT Đức chính là minh chứng rõ nhất cho sự thành công của Lippi với ĐT Italia, khi ông đã kiên định xây dựng hệ thống chiến thuật xoay quanh Pirlo. Nhận bóng bật ra sau quả phạt góc của Del Piero, Pirlo dẫn vài nhịp rồi làm động tác giả đẩy bóng ra biên, nhưng thực chất anh ngoặt chân tỉa một đường chuyền vào vòng 16m50 cho Grosso đang đứng đợi, anh này vung chân và 1-0 cho Italia. Nếu Lippi là người hướng dẫn cách tạo chìa khóa thì Pirlo là người hiện thực ý tưởng của Lippi – tạo ra chìa khóa, rồi cầm nó trao cho Grosso để hậu vệ này mở cánh cửa đưa ĐT Italia đến với Cúp vàng. Trong trận CK, một lần nữa vai trò “trao chìa khóa” của Pirlo lại được chứng minh bằng pha đá phạt góc điểm rơi, để Materazzi ghi bàn cân bằng tỉ số 1-1 trước Pháp. “Pirlo là người thủ lĩnh thầm lặng của đội bóng”, lời phát biểu ấy của Lippi đã nói lên tất cả.




Mùa bóng 2006-2007 bắt đầu với Pirlo bằng việc Milan của anh nhận âm 8 điểm do dính líu tới vụ Calciopoli. Cùng với đó là phong độ xuống dốc của cả tập thể đội bóng với khá nhiều cầu thủ lớn tuổi và một vài lý do khách quan khác, đã dẫn đến một hình ảnh Milan tệ hại nhất trong suốt 10 năm qua. Chu kỳ thăng tiến đã kết thúc và bản hành khúc Milan đang chuyển sang những nốt trầm, đó là thực tế. Và người tạo ra chu kỳ thăng tiến cho Milan cách đây hơn 5 năm – Ancelotti sẽ ra đi, muộn nhất là sau mùa bóng này. Vấn đề đó có lẽ không cần phải bàn cãi nữa, nhưng câu hỏi đặt ra là: Milan sẽ thi đấu với hệ thống chiến thuật gì trong thời kỳ mới, và vai trò của Pirlo như thế nào trong hệ thống ấy? Milancelotti lấy Pirlo làm linh hồn, Carlo ra đi, HLV mới sẽ đến với ý tưởng mới và có lẽ sẽ có linh hồn khác cho đội bóng. Bản thân người viết vẫn rất hy vọng Lippi đến với Milan và khi ấy, Pirlo vẫn sẽ là linh hồn của đội bóng. Pirlo mới 27 tuổi và anh đã ký hợp đồng với Milan đến năm 2011, thật là quá phí khi buộc anh phải rời xa vai trò đặc biệt để chuyển sang một vai trò khác ở Milan. Nếu Kaka đến Real thì rất có khả năng Pirlo sẽ lại là trở về là một Trequartista...




Gạt qua một bên những điều phiền muộn của một mùa bóng u ám, Pirlo mới đón nhận một tin vui từ người vợ Deborah. Chị đã mang đến bé con thứ 2 cho anh, bé Angela. Xin chúc gia đình của Pirlo luôn hạnh phúc và chúc cho Milan sang năm mới sẽ lại tìm được con đường cho một chu kỳ thành công mới. Và trên con đường ấy sẽ không vắng bóng của Andrea Pirlo, "ly cocktail bóng đá độc nhất vô nhị".

No comments:

Post a Comment